1.Điều trị bằng thuốc
Điều trị theo triệu chứng: Đối với những bệnh nhân có triệu chứng nhẹ, chỉ yêu cầu giảm đau bụng kinh, đặc biệt là những bệnh nhân ở giai đoạn gần mãn kinh, có thể chọn dùng thuốc chống viêm không Steroid để điều trị theo triệu chứng khi đau bụng kinh. Bởi vì nội mạc tử cung lạc vị sẽ teo dần sau khi mãn kinh, vì vậy các bệnh nhân này sẽ không cần phẫu thuật sau khi mãn kinh.
Phương pháp giả mãn kinh: Liều GnRHa tiêm có thể làm cho mức độ hormone trong cơ thể đạt đến mức độ tuyệt kinh, từ đó làm cho nội mạc tử cung lạc vị teo dần và có tác dụng điều trị. Phương pháp này còn được gọi là “cắt bỏ buồng trứng bằng thuốc” hoặc “cắt bỏ垂体 bằng thuốc”. Thường thì sau khi dùng thuốc3-6thân thể có hormone estrogen trong tuần trăng lên đến mức độ tuyệt kinh, có thể làm giảm đau bụng kinh. Đồng thời, sau khi sử dụng GnRHa, tử cung có thể co lại rõ rệt, có thể được sử dụng như thuốc trước phẫu thuật cho một số bệnh nhân có khối u lớn, khó phẫu thuật. Khi tử cung nhỏ lại, nguy cơ và độ khó của phẫu thuật sẽ giảm rõ rệt. Tuy nhiên, việc sử dụng GnRHa lâu dài có thể xuất hiện các triệu chứng tiền mãn kinh, thậm chí gây ra các phản ứng phụ nghiêm trọng của tim mạch và xương cốt, vì vậy cần thận trọng khi sử dụng GnRHa 3tháng sau đề xuất thêm estrogen ngược để giảm các phản ứng phụ. Ngoài ra, chi phí GnRHa cao, mỗi tháng cần1000-2khoảng 0.000元左右, vì vậy hiện nay không được coi là phương pháp điều trị dài hạn. Khi ngừng thuốc, sự phục hồi kinh nguyệt có thể dẫn đến sự tiến triển lại của bệnh lý. Do đó, hiện nay GnRHa thường được sử dụng như là thuốc chọn lựa để thu nhỏ khối u trước phẫu thuật và giảm tái phát sau phẫu thuật.
Phương pháp giả thai: Một số học giả cho rằng việc uống thuốc tránh thai hoặc hormone thai kỳ có thể làm cho nội mạc tử cung lạc vị bị teo và teo lại, từ đó kiểm soát sự phát triển của bệnh u xơ tử cung. Một số bệnh nhân chọn đặt vòng tránh thai Mirena để liên tục giải phóng hormone thai kỳ hiệu quả tại phần tử cung để kiểm soát các khối u lạc vị giữa lớp cơ tử cung. Tuy nhiên, một số học giả lại cho rằng nội mạc tử cung lạc vị của bệnh u xơ tử cung chủ yếu là nội mạc tử cung lớp cơ đáy, chúng không nhạy cảm với hormone thai kỳ. Do đó, hiệu quả của việc điều trị bệnh u xơ tử cung bằng hormone thai kỳ (thuốc tránh thai và Mirena) vẫn còn tranh cãi.
Điều trị y học cổ truyền: Theo hiểu biết của y học cổ truyền, bệnh u xơ tử cung liên quan đến sự ứ trệ máu trong, trong khi sự hình thành máu ứ lại lại liên quan đến các yếu tố gây bệnh như lạnh cứng, khí trệ, ứ đọng痰 ướt. Do đó, trong việc điều trị, cần dựa trên nguyên tắc hoạt hóa và hóa ứ máu, đồng thời chú ý đến nguyên nhân hình thành máu ứ và mức độ suy yếu.
2.Phương pháp điều trị
Phương pháp điều trị phẫu thuật bao gồm phẫu thuật điều trị và phẫu thuật bảo tồn. Phẫu thuật điều trị là phẫu thuật cắt bỏ tử cung, phẫu thuật bảo tồn bao gồm phẫu thuật cắt bỏ khối u xơ tử cung (u xơ tử cung), phẫu thuật cắt bỏ nội mạc tử cung và lớp cơ tử cung, phẫu thuật điện quang tử cung, phẫu thuật chặn động mạch tử cung và phẫu thuật cắt bỏ dây thần kinh hông trước và dây thần kinh xương hông.
Phẫu thuật cắt bỏ tử cung:
Dành cho bệnh nhân không có yêu cầu sinh sản, bệnh lý lan tỏa và triệu chứng nghiêm trọng, điều trị bảo thủ không hiệu quả. Đồng thời, để tránh để lại ổ bệnh, việc cắt bỏ tử cung toàn bộ là lựa chọn hàng đầu, thường không khuyến khích cắt bỏ tử cung phần.
Phẫu thuật cắt bỏ ổ bệnh tử cung nội mạc:
Dành cho những bệnh nhân có yêu cầu sinh sản hoặc trẻ hơn. Bởi vì bệnh tử cung nội mạc thường có bệnh lý lan tỏa và không rõ ràng ranh giới với mô cơ tử cung bình thường, vì vậy cách chọn phương pháp cắt bỏ để giảm chảy máu, để lại và lợi ích cho thai kỳ sau phẫu thuật là một vấn đề rất khó khăn. Các học giả có các phương án khác nhau, hiện nay vẫn chưa có một phương pháp phẫu thuật thống nhất. Takeuchi và đồng nghiệp báo cáo rằng cắt横H hình ở ổ bệnh tử cung dưới腹腔镜 có thể giảm nguy cơ đâm thủng tử cung khi cắt bỏ ổ bệnh, gấp và缝合 màng cơ bao quanh ổ bệnh. Wang Bin báo cáo rằng phẫu thuật mở bụng thực hiện cắt bỏ hình U của mô cơ tử cung. Masato Nishida chọn cắt hình thẳng dọc qua tâm tử cung, không sử dụng điều trị hỗ trợ sau phẫu thuật, sau phẫu thuật3tháng có thể mang thai.
3. Điều trị can thiệp
Trong những năm gần đây, với sự tiến bộ không ngừng của kỹ thuật điều trị can thiệp, kỹ thuật栓塞 động mạch tử cung chọn lọc cũng có thể là một trong những phương án điều trị bệnh tử cung nội mạc. Các cơ chế tác động của nó có:1, nội mạc hóa ngoại vị bị hoại tử, giảm lượng prostaglandin tiết ra, giảm đau bụng kinh;2, tử cung sau khi bị栓塞 trở nên mềm hơn, kích thước và diện tích màng niêm mạc tử cung giảm xuống, giảm lượng máu kinh;3, kích thước tử cung liên tục nhỏ đi và cơ trơn co lại, chặn các đường hẹp gây nội mạc hóa, giảm tỷ lệ tái phát;4, mức độ estrogen và số lượng thụ thể tại chỗ giảm xuống;5, việc hình thành mạch phụ trợ bên cạnh màng nội mạc bên vị trí tử cung, có thể từ tầng cơ bản dần dần di chuyển và phát triển để phục hồi chức năng. Ravina và đồng nghiệp báo cáo về kỹ thuật栓塞 động mạch tử cung để điều trị bệnh tử cung nội mạc, lượng máu kinh giảm khoảng50%, tỷ lệ cải thiện đau bụng kinh đạt9trên 0%. Wang Yitang và đồng nghiệp báo cáo128ví dụ trong số những người được điều trị bằng栓塞 động mạch tử cung để điều trị bệnh tử cung nội mạc, có80 ví dụ (62.5%) đau bụng kinh sau phẫu thuật hoàn toàn biến mất,42ví dụ (32.8%) cải thiện rõ ràng,6ví dụ (5%) cải thiện một phần. Có21ví dụ sau khi phẫu thuật9~36tháng mang thai và sinh con khỏe mạnh.
Nhưng một số học giả cho rằng kỹ thuật栓塞 động mạch tử cung có thể ảnh hưởng đến máu vận chuyển đến tử cung và buồng trứng, từ đó có thể gây ảnh hưởng không lợi đối với thai kỳ. Có thể dẫn đến vô sinh, sảy thai, sinh non và tăng tỷ lệ mổ đẻ.