Bệnh phổi do thuốc có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau từ nhiều góc độ khác nhau. Dựa trên lâm sàng, bệnh lý và biểu hiện X-quang, hiện phân loại bệnh phổi do thuốc như sau (bảng1) Do một loại thuốc có thể gây ra nhiều loại tổn thương phổi khác nhau, vì vậy các loại thuốc gây bệnh phổi do thuốc liên quan đến rất nhiều loại thuốc, chỉ có thể thảo luận tóm tắt.
一、Thay đổi phổi间质性
1Viêm phổi màng phổi: Nhiều loại thuốc có thể gây viêm phổi màng phổi, trong đó thuốc độc tế bào là phổ biến nhất. Từ khi1961Sau khi có báo cáo đầu tiên về việc busulfan gây sợi hóa phổi, các báo cáo về phản ứng độc tính phổi do thuốc tế bào độc dần dần tăng lên. Các yếu tố nguy cơ gây sợi hóa phổi lan tỏa do thuốc này bao gồm tần suất sử dụng thuốc, tổng liều thuốc, thuốc phối hợp,放疗 kết hợp, điều trị oxy cao độ, bệnh lý phổi sẵn có, tình trạng chức năng phổi, chức năng gan thận không đầy đủ và người cao tuổi và vân vân.
2Viêm màng phổi mạch thở nhỏ và viêm phổi tổ chức hóa (BOOP); Các loại thuốc phổ biến gây BOOP được liệt kê trong bảng3.
3Viêm phổi màng phổi bào mô và viêm phổi màng phổi lympho: Đến nay, các tài liệu đã báo cáo về các loại thuốc gây viêm phổi màng phổi bào mô bao gồm busulfan, interferon alpha, sulfasalazine, furantoin và vân vân. Các loại thuốc gây viêm phổi màng phổi lympho bao gồm captopril, phenytoin sodium và vân vân.
4Viêm phổi dị ứng: Một số loại thuốc như carbamazepine, docetaxel (DoeetaXel), kim loại vàng, MTX, furantoin, procarbazine và vân vân có thể gây viêm phổi dị ứng.
5Tình trạng viêm phổi phổi kèm theo tăng bạch cầu嗜酸性: Nhiều loại thuốc có thể gây viêm phổi phổi kèm theo tăng bạch cầu嗜酸性, β-Nhóm nội酰胺, nhóm sulfonamide, nhóm penicillin, nhóm fluoroquinolone, nhóm tetracycline, nhóm macrolide kháng sinh, furantoin, methotrexate, aminosalicylic acid, procarbazine, isoniazid, chlorpropamide, aspirin, furazolidone, disodium cromoglycate, paraffin lỏng và vân vân.
6Tình trạng phổi calci hóa lan tỏa: Đến nay đã có báo cáo về việc sử dụng lâu dài và liều cao các muối canxi hoặc vitamin D dẫn đến phổi calci hóa lan tỏa.
2. Phổi phù
Có rất nhiều loại thuốc có thể gây phù phổi dược lý.
Ba, bệnh lý đường thở
1Cough with or without laryngeal edema: Các loại thuốc có thể gây co thắt phế quản được liệt kê trong bảng5. Mekhân chế gây co thắt phế quản do thuốc hiện vẫn chưa rõ ràng, có thể tóm tắt lại là phản ứng dị ứng, phản ứng dược lý và kích thích trực tiếp3Phenylpenicillin, IgG và dầu iốt có thể gây co thắt phế quản thông qua phản ứng dị ứng, trong khi sodium cromoglycate và polymyxin B thường do kích thích trực tiếp. Các loại thuốc khác như beta-blocker, chất ức chế men chuyển angiotensin, thuốc chống viêm không phải là corticosteroid, prostaglandin E2và aspirin thì thông qua tác dụng dược lý trong cơ thể, dẫn đến co thắt cơ trơn phế quản. Về việc tại sao một số loại thuốc kháng ung thư và kháng sinh lại có thể gây co thắt phế quản, hiện vẫn chưa rõ.
2Cough: Các loại thuốc có thể gây ho đơn thuần主要包括 chất ức chế men chuyển angiotensin và interleukin-2Methotrexate, streptokinase và hormone. Mekhân chế tác dụng của chúng vẫn chưa rõ ràng, có thể liên quan đến angiotensin, chất phản ứng chậm, chất P và axit arachidonic trong quá trình chuyển hóa.
Bốn, bệnh lý màng phổi
Furazolidone, methylergonovine, bromocriptine, clomiphene, phenytoin sodium, cyclophosphamide, procarbazine, methotrexate, parnapril và các loại thuốc khác có thể gây ra các mức độ khác nhau của dịch màng phổi không đặc hiệu một bên hoặc hai bên, đôi khi kèm theo sự xâm nhập của mô phổi thực chất, việc sử dụng không đúng cách của thuốc chống đông máu heparin có thể gây dịch màng phổi máu. Ngoài ra, một số loại thuốc kháng ung thư như bleomycin, BCNU và điều trị bằng bức xạ có thể gây sợi hóa màng phổi phổi, dẫn đến chấn thương phổi.
Năm, xuất huyết phổi
Có thể do sử dụng lâu dài và không đúng cách của các chất ức chế đông máu và các chất tương tự, chẳng hạn như warfarin, aspirin, chất giải nguyên bạch cầu, streptokinase, urokinase, cũng có thể do các loại thuốc khác như dầu iốt, mitomycin, carbamazepine, cyclosporin, furazolidone, phenytoin sodium và vân vân. Ngoài ra, penicillamine có thể gây xuất huyết phổi và thận thông qua phản ứng dị ứng loại III.
Sáu, nhiễm trùng cơ hội ở phổi
Sau khi sử dụng lâu dài hóa chất điều trị ung thư, corticosteroid, kháng sinh, có thể xuất hiện nhiễm trùng phổi thứ phát.
Bảy, thay đổi ở mạch phổi phổi
Có nhiều loại thuốc có thể gây thay đổi ở mạch phổi phổi, như thuốc tránh thai bằng miệng, cyclosporin, mitomycin, interleukin-2Parnapril có thể gây tăng huyết áp động mạch phổi; corticosteroid, hormone nội tiết tố nữ, paracaine và các loại khác dễ gây bệnh栓塞性 phổi; bleomycin, BCNU, CCNU, thuốc tránh thai bằng miệng và bức xạ có thể gây tắc mạch phổi. Nhiều loại thuốc có thể gây viêm mạch phổi.
Bát, thay đổi giữa ống phổi
Phenytoin sodium, carbamazepine, minocycline, aspirin và các loại khác có thể gây sưng hạch bạch huyết ở cửa phổi hoặc hai bên và (hoặc) hạch bạch huyết giữa ống phổi. Sử dụng lâu dài corticosteroid có thể gây tích tụ mỡ ở giữa ống phổi, dẫn đến sự mở rộng của giữa ống phổi. Interferon alpha và interferon beta có thể gây ra biểu hiện giống bệnh nodule, trong khi interferon gamma có thể gây tăng kích thước của thymus.
Chín, bệnh lý thần kinh cơ
Các thuốc gây giảm thông khí phổi và suy hô hấp là chủ yếu là thuốc gây mê, thuốc an thần, thuốc ngủ và thuốc giãn cơ. Loại thuốc này rất nhiều, không cần liệt kê một cách chi tiết ở đây.
Mười, phản ứng granuloma phổi
Thuốc có thể là yếu tố kích thích lạ gây phản ứng ở tổ chức phổi, cũng có thể là yếu tố抗原 hữu cơ gây phản ứng dị ứng của cơ thể. Ví dụ, khi thở vào dầu có thể gây viêm phổi mỡ; khi thở vào dầu mỏ có thể xảy ra granuloma cục bộ. Khi chụp phổi bằng造影, dầu iốt có thể gây granuloma phổi, thậm chí phát triển thành viêm màng phổi kẽ. Ngoài ra,胺碘酮, bleomycin, carbamazepine, phenytoin, vincristine, minocycline v.v. còn có thể gây ra thay đổi đa nốt phổi.
Mười một, thay đổi lupus erythematosus
Đến nay có khoảng40 nhiều loại thuốc có thể gây ra thay đổi lupus erythematosus, thay đổi lupus erythematosus phổi là một phần của lupus erythematosus hệ thống toàn thân.
Mười hai, khác
Một số thuốc có thể gây đau ngực, chẳng hạn như bleomycin, bumetanide, etoposide, mesalazine, methotrexate, methyldopa, minocycline, nifedipine (cerebroton) và furantoin v.v.; salbutamol (ventolin) có thể gây nhiễm toan chuyển hóa và khó thở.